Ngành nông nghiệp Mỹ đã phát triển thành một ngành “kinh doanh nông nghiệp”, một khái niệm được đặt ra để phản ánh bản chất tập đoàn lớn của nhiều doanh nghiệp nông nghiệp trong nền kinh tế Mỹ hiện đại. Kinh doanh nông nghiệp bao gồm rất nhiều doanh nghiệp nông nghiệp và các cơ cấu trang trại đa dạng, từ các doanh nghiệp nhỏ một hộ gia đình cho đến các tổ hợp rất lớn hoặc các công ty đa quốc gia sở hữu những vùng đất đai lớn hoặc sản xuất hàng hóa và nguyên vật liệu cho nông dân sử dụng. Cũng giống như một doanh nghiệp công nghiệp tìm cách nâng cao lợi nhuận bằng việc tạo ra quy mô lớn hơn và hiệu quả hơn, nhiều nông trại Mỹ cũng ngày càng có quy mô lớn hơn và củng cố hoạt động của mình sao cho linh hoạt hơn.
Sự ra đời ngành kinh doanh nông nghiệp vào cuối thế kỷ XX đã tạo ra ít trang trại hơn, nhưng quy mô các trang trại thì lớn hơn nhiều. Đôi khi được sở hữu bởi những cổ đông vắng mặt, các trang trại mang tính tập đoàn này sử dụng nhiều máy móc hơn và ít bàn tay của nông dân hơn
·
Hiện nay, trong cuộc sống hiện đại ồn ào, đầy sức ép, người Mỹ ở
vùng đô thị hay ven đô hướng về những ngôi nhà thô sơ, ngăn nắp và những cánh
đồng, phong cảnh miền quê truyền thống, yên tĩnh. Tuy nhiên, để duy trì “trang
trại gia đình” và phong cảnh làng quê đó thực sự là một thách thức.
Nhật Bản: “Mỗi làng một
sản phẩm”
·
Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, ở tỉnh Oita (miền tây nam Nhật
Bản) đã hình thành và phát triển phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”, với mục
tiêu phát triển vùng nông thôn của khu vực này một cách tương xứng với sự phát
triển chung của cả nước Nhật Bản. Trải qua gần 30 năm hình thành và phát triển,
Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” ở đây đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ. Sự
thành công của phong trào này đã lôi cuốn sự quan tâm không chỉ của nhiều địa
phương trên đất nước Nhật Bản mà còn rất nhiều khu vực, quốc gia khác trên thế
giới. Một số quốc gia, nhất là những quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã thu
được những thành công nhất định trong phát triển nông thôn của đất nước mình
nhờ áp dụng kinh nghiệm phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”.
·
Những kinh nghiệm của phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” được
những người sáng lập, các nhà nghiên cứu đúc rút để ngày càng có nhiều người,
nhiều khu vực và quốc gia có thể áp dụng trong chiến lược phát triển nông thôn,
nhất là phát triển nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa đất nước mình.
Hàn Quốc: Phong trào
Làng mới
·
Cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, GDP bình quân đầu người của Hàn
Quốc chỉ có 85 USD; phần lớn người dân không đủ ăn; 80% dân nông thôn không có
điện thắp sáng và phải dùng đèn dầu, sống trong những căn nhà lợp bằng lá. Là
nước nông nghiệp trong khi lũ lụt và hạn hán lại xảy ra thường xuyên, mối lo
lớn nhất của chính phủ khi đó là làm sao đưa đất nước thoát khỏi đói, nghèo.
·
Phong trào Làng mới (SU) ra đời với 3 tiêu chí: cần cù (chăm chỉ),
tự lực vượt khó, và, hợp tác (hiệp lực cộng đồng). Năm 1970, sau những dự án
thí điểm đầu tư cho nông thôn có hiệu quả, Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức
phát động phong trào SU và được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Họ thi đua cải tạo
nhà mái lá bằng mái ngói, đường giao thông trong làng, xã được mở rộng, nâng
cấp; các công trình phúc lợi công cộng được đầu tư xây dựng. Phương thức canh
tác được đổi mới, chẳng hạn, áp dụng canh tác tổng hợp với nhiều mặt hàng mũi
nhọn như nấm và cây thuốc lá để tăng giá trị xuất khẩu. Chính phủ khuyến khích
và hỗ trợ xây dựng nhiều nhà máy ở nông thôn, tạo việc làm và cải thiện thu
nhập cho nông dân.
·
Bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kỳ diệu.
Chỉ sau 8 năm, các dự án phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn cơ bản được hoàn thành.
Trong 8 năm từ 1971-1978, Hàn Quốc đã cứng hóa được 43.631km đường làng nối với
đường của xã, trung bình mỗi làng nâng cấp được 1.322m đường; cứng hóa đường
ngõ xóm 42.220km, trung bình mỗi làng là 1.280m; xây dựng được 68.797 cầu (Hàn
Quốc là đất nước có nhiều sông suối), kiên cố hóa 7.839km đê, kè, xây 24.140 hồ
chứa nước và 98% hộ có điện thắp sáng. Đặc biệt, vì không có quỹ bồi thường đất
và các tài sản khác nên việc hiến đất, tháo dỡ công trình, cây cối, đều do dân
tự giác bàn bạc, thỏa thuận, ghi công lao đóng góp và hy sinh của các hộ cho
phong trào.
·
Nhờ phát triển giao thông nông thôn nên các hộ có điều kiện mua
sắm phương tiện sản xuất. Cụ thể là, năm 1971, cứ 3 làng mới có 1 máy cày, thì
đến năm 1975, trung bình mỗi làng đã có 2,6 máy cày, rồi nâng lên 20 máy vào
năm 1980. Từ đó, tạo phong trào cơ khí hóa trong sản xuất nông nghiệp, áp dụng
công nghệ cao, giống mới lai tạo đột biến, công nghệ nhà lưới, nhà kính trồng
rau, hoa quả đã thúc đẩy năng suất, giá trị sản phẩm nông nghiệp, tăng nhanh.
Năm 1979, Hàn Quốc đã có 98% số làng tự chủ về kinh tế.
Ông Le Sang Mu, cố vấn đặc biệt của Chính phủ
Hàn Quốc về nông, lâm, ngư nghiệp cho biết, Chính phủ hỗ trợ một phần đầu tư hạ
tầng để nông thôn tự mình vươn lên, xốc lại tinh thần, đánh thức khát vọng tự
tin. Thắng lợi đó được Hàn Quốc tổng kết thành 6 bài học lớn.
·
Thứ nhất, phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ
tầng nông thôn - phương châm là nhân dân quyết định và làm mọi việc, “nhà nước
bỏ ra 1 vật tư, nhân dân bỏ ra 5-10 công sức và tiền của”. Dân quyết định loại
công trình, dự án nào cần ưu tiên làm trước, công khai bàn bạc, quyết định
thiết kế và chỉ đạo thi công, nghiệm thu công trình. Năm 1971, Chính phủ chỉ hỗ
trợ cho 33.267 làng, mỗi làng 335 bao xi măng. Năm 1972 lựa chọn 1.600 làng làm
tốt được hỗ trợ thêm 500 bao xi măng và 1 tấn sắt thép. Sự trợ giúp này chính
là chất xúc tác thúc đẩy phong trào nông thôn mới, dân làng tự quyết định mức
đóng góp đất, ngày công cho các dự án.
·
Thứ hai, phát triển sản xuất để tăng thu nhập. Khi kết cấu hạ tầng
phục vụ sản xuất được xây dựng, các cơ quan, đơn vị chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật, giống mới, khoa học công nghệ giúp nông dân tăng năng suất cây trồng,
vật nuôi, xây dựng vùng chuyên canh hàng hóa. Chính phủ xây dựng nhiều nhà máy
ở nông thôn để chế biến và tiêu thụ nông sản cũng như có chính sách tín dụng
nông thôn, cho vay thúc đẩy sản xuất. Từ năm 1972 đến năm 1977, thu nhập trung
bình của các hộ tăng lên 3 lần.
·
Thứ ba, đào tạo cán bộ phục vụ phát triển nông thôn Hàn Quốc, xác
định nhân tố quan trọng nhất để phát triển phong trào SU là đội ngũ cán bộ cơ
sở theo tinh thần tự nguyện và do dân bầu. Hàn Quốc đã xây dựng 3 trung tâm đào
tạo quốc gia và mạng lưới trường nghiệp vụ của các ngành ở địa phương. Nhà nước
đài thọ, mở các lớp học trong thời gian từ 1-2 tuần để trang bị đủ kiến thức
thiết thực như kỹ năng lãnh đạo cơ bản, quản lý dự án, phát triển cộng đồng.
·
Thứ tư, phát huy dân chủ để phát triển nông thôn. Hàn Quốc thành
lập hội đồng phát triển xã, quyết định sử dụng trợ giúp của chính phủ trên cơ
sở công khai, dân chủ, bàn bạc để triển khai các dự án theo mức độ cần thiết
của địa phương. Thành công ở Hàn Quốc là xã hội hóa các nguồn hỗ trợ để dân tự
quyết định lựa chọn dự án, phương thức đóng góp, giám sát công trình.
·
Thứ năm, phát triển kinh tế hợp tác từ phát triển cộng đồng Hàn
Quốc đã thiết lập lại các hợp tác xã (HTX) kiểu mới phục vụ trực tiếp nhu cầu
của dân, cán bộ HTX do dân bầu chọn. Phong trào SU là bước ngoặt đối với sự
phát triển của HTX hoạt động đa dạng, hiệu quả trong dịch vụ tín dụng, cung cấp
đầu vào cho sản xuất, tiếp thị nông sản, bảo hiểm nông thôn và các dịch vụ
khác. Trong vòng 10 năm, doanh thu bình quân của 1 HTX tăng từ 43 triệu won lên
2,3 tỉ won.
·
Thứ sáu, phát triển và bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường bằng sức
mạnh toàn dân. Chính phủ quy hoạch, xác định chủng loại cây rừng phù hợp, hỗ
trợ giống, tập huấn cán bộ kỹ thuật chăm sóc vườn ươm và trồng rừng để hướng
dẫn và yêu cầu tất cả chủ đất trên vùng núi trọc đều phải trồng rừng, bảo vệ
rừng. Nếu năm 1970, phá rừng còn là quốc nạn, thì 20 năm sau, rừng xanh đã che
phủ khắp nước, và đây được coi là một kỳ tích của phong trào SU.
Phong trào SU của Hàn Quốc đã biến đổi cộng đồng
vùng nông thôn cũ thành cộng đồng nông thôn mới ngày một đẹp hơn và giàu hơn.
Khu vực nông thôn trở thành xã hội năng động có khả năng tự tích lũy, tự đầu tư
và tự phát triển. Phong trào SU, với mức đầu tư không lớn, đã góp phần đưa Hàn
Quốc từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở nên giàu có.
Thái Lan: sự trợ giúp
mạnh mẽ của nhà nước
·
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông
thôn chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền
nông nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò của
cá nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong
trào học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các
lớp học và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn;
tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ
trong nông nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo hiểm rủi ro
cho nông dân.
·
Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức
cạnh tranh với các hình thức, như tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy
mạnh công tác tiếp thị; phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa
học và hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi
và kịp thời phục hồi những khu vực mà tài nguyên đã bị suy thoái; giải quyết
những mâu thuẫn có liên quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm, thủy hải sản, đất
đai, đa dạng sinh học, phân bổ đất canh tác. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng,
Nhà nước đã có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công trình thủy
lợi lớn phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu
hết đất canh tác trên toàn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại
cây trồng khác trong sản xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn
với việc xây dựng các trạm thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả
nước…
·
Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chính phủ Thái Lan đã
tập trung vào các nội dung sau: Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công
nghiệp nông thôn, đồng thời cũng xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ
năng truyền thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và tiếp thị song
song với việc cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi
nhọn như sản xuất hàng nông nghiệp, thủy, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy
mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu,
nhất là các nước công nghiệp phát triển. Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm ở
Thái Lan phát triển rất mạnh nhờ một số chính sách sau:
·
Chính sách phát triển nông nghiệp: Một trong những nội
dung quan trọng nhất của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2000-2005
là kế hoạch cơ cấu lại mặt hàng nông sản của Bộ Nông nghiệp Thái Lan, nhằm mục
đích nâng cao chất lượng và sản lượng của 12 mặt hàng nông sản, trong đó có các
mặt hàng: gạo, dứa, tôm sú, gà và cà phê. Chính phủ Thái Lan cho rằng, càng có
nhiều nguyên liệu cho chế biến thì ngành công nghiệp chế biến lương thực thực
phẩm mới phát triển và càng thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Nhiều sáng
kiến làm gia tăng giá trị cho nông sản được khuyến khích trong chương trình Mỗi
làng một sản phẩm và chương trình Quỹ làng.
·
Chính sách bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm: Chính phủ Thái Lan
thường xuyên thực hiện chương trình quảng bá vệ sinh an toàn thực phẩm. Năm
2004, Thái Lan phát động chương trình “Năm an toàn thực phẩm và Thái Lan là bếp
ăn của thế giới”. Mục đích chương trình này là khuyến khích các nhà chế biến và
nông dân có hành động kiểm soát chất lượng vệ sinh thực phẩm để bảo đảm an toàn
cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, Chính phủ thường
xuyên hỗ trợ cho doanh nghiệp cải thiện chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Do đó, ngày nay, thực phẩm chế biến của Thái Lan được người tiêu dùng ở các thị
trường khó tính, như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU, chấp nhận.
·
Mở cửa thị trường khi thích hợp: Chính phủ Thái Lan đã xúc tiến đầu tư, thu hút mạnh các nhà
đầu tư nước ngoài vào liên doanh với các nhà sản xuất trong nước để phát triển
ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, thông qua việc mở cửa cho các quốc gia dù
lớn hay nhỏ vào đầu tư kinh doanh. Trong tiếp cận thị trường xuất khẩu, Chính
phủ Thái Lan là người đại diện thương lượng với chính phủ các nước để các doanh
nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu thực phẩm chế biến. Bên cạnh
đó, Chính phủ Thái Lan có chính sách trợ cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến
và đầu tư trực tiếp vào kết cấu hạ tầng như: Cảng kho lạnh, sàn đấu giá và đầu
tư vào nghiên cứu và phát triển; xúc tiến công nghiệp và phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Xúc tiến công nghiệp là trách nhiệm chính của Cục Xúc tiến
công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp, nhưng việc xúc tiến và phát triển công nghiệp
chế biến thực phẩm ở Thái Lan do nhiều cơ quan cùng thực hiện. Chẳng hạn, trong
Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã, cùng với Cục Xúc tiến nông nghiệp, Cục Hợp tác xã
giúp nông dân xây dựng hợp tác xã để thực hiện các hoạt động, trong đó có chế
biến thực phẩm; Cục Thủy sản giúp đỡ nông dân từ nuôi trồng, đánh bắt đến chế
biến thủy sản. Cơ quan Tiêu chuẩn sản phẩm công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp xúc
tiến tiêu chuẩn hoá và hệ thống chất lượng; Cơ quan Phát triển công nghệ và
khoa học quốc gia xúc tiến việc áp dụng khoa học và công nghệ cho chế biến; Bộ
Đầu tư xúc tiến đầu tư vào vùng nông thôn.
Một số kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp,
nông thôn nêu trên cho thấy, những ý tưởng sáng tạo, khâu đột phá và sự trợ
giúp hiệu quả của nhà nước trên cơ sở phát huy tính tự chủ, năng động, trách
nhiệm của người dân để phát triển khu vực này, có ý nghĩa và vai trò hết sức
quan trọng đối với việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công nông nghiệp -
tạo nền tảng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguồn: tapchicongsan.org.vn